.
.

Này các đệ tử, có một con đường đưa đến Niết Bàn; Như Lai có mặt với tư cách là đạo sư chỉ đường. Những gì cần dạy, Ta đã chỉ dạy. Những gì cần làm, Ta đều đã làm. Trong hội chúng ta, có người chứng đắc quả A-la-hán, có người đang cố nỗ lực thực tập. Người chứng, người không. Ta làm gì được? Như Lai là bậc chỉ con đường đúng. (Kinh Trung Bộ III, trang l05). I. BỒ-TÁT GIÁNG THẾ 1.Phật giáng sinh: “Như Lai xuất hiện trên cõi đời này là điều hy hữu. Đầu tiên Ta ở cõi trời Đâu-suất đến hết thọ mạng, sau đó hạ sinh từ trời Đâu-suất, nhập vào bào thai thánh hậu Ma-ya. Trong giờ phút đó, hào quang chiếu soi, rực rỡ lạ kỳ, sáng hơn nhật nguyệt, thế giới chuyển động chào đón Như Lai.” 2.Ảnh hưởng từ thai nhi: “Mẹ mang thai Ta đúng tròn mười tháng. Từ lúc mang thai, mẫu hậu của Ta giới hạnh thanh cao, lòng từ rộng mở, không có dục tâm với bất kỳ ai.” “Trong lúc mang thai, mẹ Ta hoan hỷ, khoan khoái, an vui, sức khỏe tốt hơn, không chút bệnh tật. Mẹ Ta cảm nhận Ta là thánh nhi, như viên ngọc quý không chút tỳ vết, tuyệt hảo trên đời.” 3.Sinh tư thế đứng: “Khi sinh ra Ta, mẹ Ta sinh đứng. Sinh chưa chạm đất thì có chư thiên nghênh tiếp đón ta.” – “Thân thể của Ta lúc vừa sinh ra không bị ô nhiễm bởi nước ối, máu, hoàn toàn trong sạch, như ngọc ma-ni, trong sáng, đẹp màu. Từ trên hư không có hai dòng nước, một nóng, một lạnh phun tắm cho Ta và cho mẫu hậu.” “Vừa mới sinh ra, Ta đứng vững vàng trên đôi chân mình, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, với lọng trắng che, Ta thốt lên lời: “Ta là tối thượng trên cõi đời này, đây là kiếp sống cuối cùng của ta, Ta không tái sinh vào cõi đời nữa.” 4.Mồ côi mẹ: “Tròn bảy ngày sau, mẹ Ta qua đời, liền tái sinh về cõi trời Đâu-suất. (Kinh hy hữu, vị tằng hữu pháp, thuộc Kinh Trung bộ 123). 5. Tiên tri đón tướng “Ngài A-tư-đà liền đến hoàng thành Ca-tỳ-la-vệ, mong được yết kiến thái tử sơ sinh. Vừa gặp tôn nhan băm hai tướng hảo, ông thốt lên lời: “Thái tử vô thượng, là người số một trong loài hai chân.” Nói xong ông khóc, buồn số phận mình, nay đã già nua, không còn cơ hội, gặp được thái tử, để chứng kiến cảnh thái tử giác ngộ. Ông khẳng định rằng, đến tuổi trưởng thành, thái tử xuất gia, thành bậc Giác ngộ số một ở đời, chuyển bánh xe pháp, thanh tịnh tối thắng, vì lòng từ bi, thương xót chúng sinh, giúp đời lợi lạc.” (Kinh Tập, kệ 679-694) II. KHÔNG MÀNG HƯỞNG THỤ 1. Ba cung điện: “Về các tiện nghi, phụ vương xây dựng ba lâu đài đẹp, một cho mùa đông, một cho mùa hạ, một cho mùa mưa, tiện nghi đầy đủ, sang trạng, quý phái. Trong bốn tháng hè, lúc nào cũng có các nữ nhạc công đoanh vây phục vụ ca, múa, xướng, hát.” 2. Tiện ích đặc biệt: “Này các đệ tử, ở trong hoàng cung, Ta được nuôi dưỡng vô cùng đặc biệt. Phụ vương của Ta cho xây ao hồ, có ao sen xanh, có ao sen đỏ, có ao sen trắng. Những gì Ta cần, đều được phục vụ rất là tận tình và thật chu đáo. Các loại chiên-đàn, hương liệu cao cấp, lụa Kasi quý, Ta đều sử dụng. Cả ngày lẫn đêm luôn có lọng che, tránh khỏi nóng, lạnh, bụi bặm và sương.” 3. Quyết tâm từ bỏ: “Dù sống trong cảnh giàu sang, sung sướng bậc nhất trần đời, Ta suy nghĩ rằng: “Phàm phu ít nghe, khi mình bị già, hoặc thấy người già, bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, chán ngán. Ta ý thức được Ta cũng bị già, không vượt khỏi già. Ta cũng bị chết, không vượt khỏi chết. Nhờ suy nghĩ này, kiêu mạn tuổi trẻ, kiêu mạng sự sống đoạn trừ nơi Ta… Thật không xứng đáng cho Ta mê đắm. Quyết tâm từ bỏ, Ta đi xuất gia, tầm cầu giải thoát cho mình và người.” (Kinh Tăng Chi I, 162-163)”. 4. Vua Tần-bà-sa-la nhường nửa giang sơn “Này các đệ tử, Ta nhận thức rõ đời sống gia đình tụ hội bụi đời, trong khi xuất gia thoáng rộng như trời, nên Ta quyết chí, buông bỏ ngai vàng, vợ đẹp, con thơ, xuất gia cầu đạo, từ bỏ nghiệp phàm với nhiều chướng lụy. Ta đến Vương xá, nước Ma-kiệt-đà sống đời khất sĩ. Đức vua Bình-sa nhìn thấy thân Ta đẹp, cao, rạng rõ, thong dong chánh niệm, liền cho sứ giả dõi bước theo ta, quan sát xong rồi trở về trình báo.” “Vừa nghe câu chuyện, đức vua Bình-sa vội lên cỗ xe, đến yết kiến ta. Ta cho Vua biết nguyên nhân đi tu của Ta là do Ta không tha thiết hưởng thụ dục lạc; Ta thấy rất rõ dục là nguy hiểm, nên đã tinh tấn, từ bỏ tất cả, chuyển hóa thân tâm để được an vui.” (Kinh Tập, kệ 405-424) III. TẦM SƯ HỌC ĐẠO 1. Tu thiền vô sở hữu xứ: “Lúc mới đi tu, Ta đi đến chỗ ngài A-là-ra Kà-la-ma ở. Ta nêu quyết tâm: “Ngài A-là-ra có được lòng tin, tinh tấn, chánh niệm, thiền định, trí tuệ thì Ta cũng vậy không nên thua kém. Ta đã quyết tâm, tu tập tin tấn, đạt được các pháp mà A-là-ra đã chứng đạt được.” Chẳng bao lâu sau, Ta đã chứng bằng ngài A-là-ra. Sau khi kiểm chứng, Ta nhận ra rằng: “Vô sở hữu xứ không có khả năng đưa đến an tịnh, thượng trí, giác ngộ, niết-bàn, giải thoát.” Ta đã mạnh dạn từ bỏ pháp này, tiếp tục lên đường tìm kiếm tâm linh.” 2. Tu thiền phi tưởng: “Ta đã đến gặp ngài Ud-da-ka Ra-ma-put-ta, cầu học chân lý, gọi là “phi tưởng, phi phi tưởng xứ.” Ta học mau chóng, thông hiểu tất cả những gì được dạy. Chẳng bao lâu sau, Ta đã tự chứng pháp ấy như thầy. Ngài Ud-da-ka đã xác nhận rằng điều Ta chứng được đã bằng với ngài. Ngài xác nhận rằng: “Pháp mà tôi biết, hiền giả đã biết; pháp mà tôi chứng, hiền giả đã chứng. Tôi chứng đạt gì, hiền giả cũng đạt. Hãy đến nơi đây, hai Ta hãy cùng chăm sóc hội chúng.” “Rồi Ta suy nghĩ: “Pháp Ta đã chứng, bằng hai thầy mình, không có khả năng đưa đến an tịnh, thượng trí, giác ngộ, niết-bàn, giải thoát.” Ta đã mạnh dạn từ bỏ pháp này, tiếp tục lên đường tìm kiếm tâm linh.” (Kinh Thánh Cầu thuộc Kinh Trung Bộ, I, 163-8). 3. Sáu năm khổ hạnh “Sau khi từ giả hai vị đạo sư, Ta tu khổ hạnh trong suốt sáu năm, không ai sánh bằng. Vì ăn quá ít, tay chân của Ta óm như cọng cỏ, cây leo khô héo. Bàn trôn của Ta như móng lạc đà. Xương sống phô bày như một chuỗi banh. Xương sườn gầy mòn như rui nhà nát. Con mắt của Ta không còn long lanh, nằm sâu hun hút. Da đầu nhăn nheo, như trái bí đắng ngả màu xám trắng, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo. Da bụng của Ta bám sát xương sống, đen đuốt xấu xí. Khi đi vệ sinh, Ta đã té gục, úp mặt xuống đất. Lông tóc hư mục, rời khỏi thân ta. Ta tự xoa bóp cơ thể của Ta, toàn thân, tay, chân thật là đau nhức. Từ nhận thức này, Ta quyết từ bỏ pháp tu khổ hạnh của Bà-la-môn. Ta rời núi Khổ, đi thẳng về hướng Bồ-đề Đạo tràng, chuyên tâm thiền định, suốt bốn chín ngày.” (Kinh Sử Tử Hống thuộc Kinh Trung Bộ I, 80). IV. GIÁC NGỘ VÀ TUYÊN BỐ CHÂN LÝ 1. Chứng 4 thiền: “Này các đệ tử, rồi Ta suy nghĩ: Ta đang ngồi dưới bóng mát Bồ-đề, chuyển hóa ái dục, ly bất thiện pháp, thanh tịnh tâm ý, chứng thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do lìa ái dục, còn tầm, còn tứ; chứng thiền thứ hai, trạng thái hỷ lạc do nội định sinh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm; chứng thiền thứ ba trụ xả, lìa các hỷ lạc, chính niệm, tỉnh giác, cảm nhận hạnh phúc do biết buông xả; chứng thiền thứ tư buông bỏ tất cả ý niệm, không còn khổ vui, thanh tịnh tuyệt đối. Ta nhận ra rằng đây là con đường đưa đến an lạc, giác ngộ, niết-bàn.” (Kinh Trung Bộ I, 240). 2. Chứng đạo nhờ tứ đế: “Này các đệ tử, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không còn cấu nhiễm, vững chãi, định tỉnh, Ta hướng tâm đến trí tuệ lậu tận, Ta biết như thật: “Đây là Khổ đau, thân gồm bốn loại sanh, già, bệnh, chết; tâm gồm bốn loại yêu phải chia lìa, ghét phải gặp gỡ, muốn không mà không được và chấp thân thể.” Ta biết như thật: “Đây là nhân khổ bao gồm tham ái, sân hận, si mê và các chấp thủ.” Ta biết như thật: “Đây là Niết-bàn, an lạc tuyệt đối, không còn khổ đau, không bị lay động, không bị thay đổi, bây giờ tại đây, trên cõi đời này.” Ta biết như thật: “Đây là con đường chấm dứt khổ đau gồm tám yếu tố: tầm nhìn chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói đạo đức, hành vi đạo đức, nghề nghiệp đạo đức, tinh tấn, chánh niệm và thiền định đúng.” “Nhờ nhận thức này, tâm Ta thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Trong Ta khởi lên một loại hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Ta biết rất rõ: “Tái sanh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm. Không còn trở lại sinh tử này nữa.” (Kinh Trung Bộ I, 248). 3. Độ người để tạ ơn: “Sa-ham-pa-ti thưa với Ta rằng: “Kính bạch Thế Tôn, hãy ban lời vàng! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ hiểu chánh pháp, sẽ tu chánh pháp.” “Ta đã nhận lời. Ta liền nghĩ đến thầy A-la-ra, nhưng thầy đã chết bảy ngày trước đó. Ta bèn nghĩ đến thầy Ud-da-ka, người vừa qua đời mới ngày hôm qua.” “Ta liền nghĩ đến nhóm năm tu sĩ, từng là bạn ta, khi tu khổ hạnh, hiện đang tu tại khu vườn Nai đẹp, thuộc Ba-la-nại. Ta đã lên đường, gặp họ tại đây. Trong bài Kinh đầu là Chuyển Pháp Luân, Ta đã khẳng định: “Này các đệ tử, cho đến khi nào, chúng Ta hiểu được bản chất khổ đau, nguyên nhân khổ đau, niết-bàn hết khổ, con đường diệt khổ, thì đến lúc ấy, tham ái kết thúc, chuyển hóa sạch nghiệp, không còn phiền não, dứt sạch nghiệp chướng, thanh tịnh, giác ngộ, chứng đắc giải thoát, không còn tái sinh.” (Kinh Đại bát-niết-bàn thuộc Kinh Trường bộ 16). V. VỊ TRÍ CỦA PHẬT 1. Tối thượng: “Này các đệ tử, kết thúc sinh tử, Ta đã trở thành giác ngộ tối tôn ở trên đời này. Ta là Trưởng thượng. Ta là Tối thượng. Đây là kiếp sống cuối cùng của Ta. Từ nay trở đi, Ta không tái sanh theo nghiệp lôi kéo”. (Trường Bộ Kinh I, 151). 2. Số một giữa loài 2 chân: “Này các đệ tử, một người xuất hiện ở trên cõi đời, có một không hai, không có đồng bạn, không có ngang bằng, không có tương tự, bậc tối thượng giữa các loài hai chân, đó là Như Lai, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác”. (Tăng Chi Bộ kinh I, 29) 3. Chỉ một đức Phật: “Sự kiện sau đây không thể xảy ra, trong một thế giới có hai đức Phật, Chánh Đẳng Chánh Giác, không trước không sau, xuất hiện cùng lúc. Trong một thế giới, chỉ có một vị chứng đắc Phật quả.” (Tăng Chi Bộ Kinh I, 37) 4. Vì hạnh phúc cho nhân sinh: “Này các đệ tử, như bông sen xanh, sen hồng, sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, không bị nước thấm; sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta chinh phục đời, không bị nghiệp đời làm cho thấm ướt. Ta là đức Phật, giác ngộ tuyệt đối. “Ta trở thành người không bị chi phối bởi tham, sân, si. Ta sanh ra ở đời, vì hạnh phúc lớn cho các chúng sinh, vì lòng thương đời, vì phúc lạc lớn cho loài người này” (Kinh Trung Bộ I, 83)”. VI. MỒI ĐÈN CHÂN LÝ 1. Kêu gọi truyền chân lý: Ta đã khuyến khích 60 A-la-hán như sau: “Này các đệ tử, hãy siêng du hành, vì hạnh phúc lớn cho cả loài người, vì an lạc lớn, vì thương tưởng đời, vì các lợi ích và nhiều phúc lạc cho loài người này. Tất cả các vị đừng đi chung đường. Hãy đi nhiều hướng, truyền bá chân lý, toàn thiện quảng đầu, toàn thiện quảng giữa, toàn thiện quảng sau, cả văn và nghĩa, mô tả trọn vẹn đời sống thánh thiện. Như các đệ tử, Ta sẽ đi về U-ru-ve-la để truyền chân lý.” (Kinh Tương Ưng I, 128)”. 2. Chỉ đường diệt khổ: “Này các đệ tử, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên hiện thực khổ đau và con đường đến kết thúc khổ đau.” (Kinh Trung Bộ I, 140)”. 3. Độ sinh nhờ thông căn tính: “Này các đệ tử, Như Lai biết rõ: Điều gì xảy ra thì phải xảy ra, các quả báo trổ tùy thuộc nhân duyên, nhân duyên của nghiệp gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai. Như Lai biết rõ con đường tái sanh trong các cảnh giới thuộc kiếp luân hồi. Như Lai biết rõ thế giới sai biệt, nghiệp cảm sai biệt, căn tánh sai biệt của các chúng sanh. Như Lai biết rõ tạp nhiễm, thanh tịnh; giá trị thiền định, giải thoát, trí tuệ. Như Lai thấy rõ các kiếp quá khứ, các kiếp tương lai của các chúng sinh. Như Lai chuyển hóa tất cả lậu hoặc, đạt được thánh trí, giác ngộ, giải thoát. Như Lai chứng đăc sáu phép thần thông. Như Lai đạt được bốn không sợ hãi, không sợ ai đến chất vấn điều gì, chất vấn giác ngộ, chất vấn chướng ngại, chất vấn mục tiêu, chất vấn diệt khổ; bất kể điều gì, ngài đều thông suốt.” (Kinh Trung Bộ I, 69). 4. Không tranh chấp với đời: “Này các đệ tử, Ta không tranh chấp cái gì với đời, chỉ có cuộc đời tranh chấp với Ta. Này các đệ tử, mỗi khi thuyết pháp không nên tranh chấp với ai ở đời.” (Kinh Tương Ưng III, 165)”. VII. VAI TRÒ ĐẠO SƯ 1. Người chỉ đường: “Này các đệ tử, có một con đường đưa đến Niết Bàn; Như Lai có mặt với tư cách là đạo sư chỉ đường. Những gì cần dạy, Ta đã chỉ dạy. Những gì cần làm, Ta đều đã làm. Trong hội chúng ta, có người chứng đắc quả A-la-hán, có người đang cố nỗ lực thực tập. Người chứng, người không. Ta làm gì được? Như Lai là bậc chỉ con đường đúng”. (Kinh Trung Bộ III, trang l05). 2. Tinh thần thực chứng: “Thế Tôn là bậc đã được giác ngộ, thuyết giảng phương cách để được giác ngộ. Thế Tôn điều phục, thuyết giảng phương pháp để được điều phục. Thế Tôn tịch tịnh, thuyết giảng phương pháp để đạt tịch tịnh. Thế Tôn vượt qua, thuyết giảng phương pháp để được vượt qua. Thế Tôn đạt được Niết Bàn, thuyết pháp phương pháp đạt được Niết Bàn”. (Kinh Trung Bộ I, 237). 3. Khuyên người thực tập: “Này các đệ tử, truyền thống tâm linh, do Ta thiết lập, vô cùng tốt đẹp, có giá trị lớn, các đệ tử hãy tiếp tục duy trì”. (Kinh Trung Bộ II, 82). “Này các đệ tử, là bậc đạo sư, những gì Ta làm là vì từ mẫn, mưu cầu hạnh phúc cho các đệ tử. Này các đệ tử, đây là gốc cây, đây nơi an tĩnh, hãy thực tập thiền, chớ có phóng dật, để không nuối tiếc. Đây lời Ta dạy, hãy gắng thực hành”. (Kinh Trung Bộ III, 96). VIII. NHỮNG LỜI DI CHÚC 1. Già bệnh là quy luật: “Bốn mươi lăm năm, rầy đây mai đó, Ta đã truyền bá Pháp và Luật này, với hàng ngàn bài chân lý cao quý, cho nhiều thành phần, từ vua đến dân, từ các sa-môn hay bà-la-môn đến người không đạo, giúp họ từ bỏ các hạnh nghiệp xấu, phát triển thiện tâm, thanh tịnh tâm ý, hướng đến giải thoát, trí tuệ, niết-bàn. Nay đã đến lúc thân thể Ta bệnh.” (Kinh Tương ưng, V, 229). Ta nay đã già, tám mươi tuổi rồi, đến lúc vẫy chào với cuộc đời này. Thân thể của Ta như cỗ xe già, còn chạy được là nhờ dây chằng chịt. Khi Ta không còn tác ý đến tướng, thì các cảm giác sẽ không khởi lên, Ta chứng, an trú tâm định vô tướng, lúc ấy thân Ta vô cùng thoải mái.” (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16) 2. Bản chất của chết: “Vào ngày cuối cùng, Phật đang ở tại rừng cây Sa-la, ngài dạy như sau: “Thân Ta già bệnh, còm người phía trước, tay chân rã rời, giác quan yếu dần, da Ta nhăn nhíu, không còn trong sáng. Này các đệ tử, sự tình là vậy. Bản chất của già nằm trong tuổi trẻ. Bản chất của chết nằm trong sự sống.” (Kinh Tương ưng, V, 229) 3. Không bí mật pháp: “Này các đệ tử, Ta đã giảng pháp, không hề phân biệt, không hề dấu giữ trong tay điều gì. Ta không nghĩ rằng Ta là lãnh đạo của cả Tăng đoàn, Tăng đoàn phải chịu hướng dẫn của ta. Ta đã công bố con đường giác ngộ. (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16) 4. Tự thắp đuốc đi: “Này các đệ tử, mỗi người tự mình thắp đuốc mà đi, hãy tự nương tựa, chớ nương gì khác. Hãy dùng Chánh pháp làm ngọn đèn soi, hãy dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa khác. Nương tựa vào pháp được hiểu như sau. Đối với thân thể, cảm giác, tâm hành và các ý niệm thì nên quán chiếu, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm hiện tiền, nhiếp phục tham ái, không còn sầu bi.” (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16) IX. GIẢ TỪ CÕI ĐỜI 1. Thương tiếc vô vàn: “Khi nghe tin Phật đã nhập niết-bàn, dân tộc Malla tại Câu-thi-la, Tăng, Ni, Phật tử, tất cả mọi người tâm tư khổ não, đau đớn sầu muộn, kẻ thì khóc than với đầu tóc rối, người thì than thân, bổ nhoài dưới đất. Tất cả tiếc nuối: “Vì sao Thế Tôn nhập diệt quá sớm. Thế Tôn đi rồi, pháp nhãn biến mất khỏi cõi đời này. Thật là uổng tiếc.” (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16). 2. Phản ứng của đệ tử: “Đứng trước cảnh tượng từ giã đạo sư, các vị tu sĩ chưa chứng thánh quả, đã không thể ngăn dòng lệ kính tiếc. “Vì sao Thế Tôn nhập diệt quá sớm. Thế Tôn đi rồi, pháp nhãn biến mất khỏi cõi đời này. Thật là uổng tiếc.” Đối với các vị đã chứng quả thánh, an trú chánh niệm, nội tĩnh suy tư: “Mọi thứ trên đời đều là vô thường. Không ai tránh được phút biệt ly này.” (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16). 3. Cúng dường lễ trà tỳ: “Không ai bảo ai, nhiều người gom góp hương, hoa, nhạc khí, lụa quý… đem về khu rừng Sa-la, cung kính, tưởng niệm, làm lễ hỏa thiêu bậc thầy vĩ đại. Suốt bảy ngày liền, mọi người cúng dường thân xá-lợi Phật các điệu ca múa, lời hát thiền vị, tràng hoa, hương liệu, trước khi đưa tiễn kim thân của ngài đến dàn hỏa thiêu. Thờ tại của Đông, kim thân của Phật được vấn lụa quý, gồm năm trăm lớp, đặt trong hòm sắt. Một dàn hỏa thiêu tẫm hương liệu quý nâng kim thân ngài. Hàng trăm tràng hoa được tôn trí đẹp.” (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16). 4. Tám phần xá lợi: “Ngài Đại Ca-diếp và năm trăm vị đệ tử Tỳ-kheo vội vã đường về từ xứ Pava, đúng một tuần lễ, mới về tới nơi. Khi ngài Ca-diếp, tất cả mọi người đảnh lễ Thế Tôn, lửa bắt đầu cháy. Hương thơm tỏa ngát, cảnh trời xao xát, tâm người buồn tênh. Sau lễ hỏa thiêu, kim thân của Phật để lại rất nhiều các viên xá-lợi, vô cùng quý giá. Xá-lợi của Phật chia làm tám phần, đựng trong tráp đá, dành cho tám Vua Phật tử thuần thành, xây tháp tôn thờ tại nước của họ, giúp cho bá tánh có dịp chiêm bái.” (Kinh Ðại Bát-niết-bàn, thuộc Kinh Trường bộ 16). Bài viết: “Cuộc đời đức Phật lịch sử theo kinh điển Pali” Thích Nhật Từ


Câu chuyện tiền thân Đức Phật hy sinh thân mình để cứu mẹ con đàn hổ đói là sự kiện chấn động lịch sử. Ngay từ thời vua A Dục (अशोक:304-232 BC), câu chuyện này đã lưu truyềnvà trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ sáng tạo nên những kiệt tác bích họa còn mãi đến hôm nay2.
 
baothaptienthan (1).jpg
Tượng Bồ-tát và đàn hổ trong quần thể bảo tháp Namo Buddha, Nepal
Vì tính chất trọng yếu và thiêng liêng của sự kiện, nên đã được nhiều truyền thống Phật giáo lập tháp phụng thờ và xem đó như là Thánh địa. Với khảo sát sơ bộ cho thấy, có hai địa điểm xây tháp đánh dấu nơi thái tử xả thân. Một bảo tháp ở Gandhāra, thuộc Pakistan ngày nay và một bảo tháp khác được xây dựng tại thung lũng Kathmandu, ở miền trung Nepāl.
Từ những điều quá khác biệt về vị trí địa lý, cơ sở hình thành, niên đại lịch sử…đã làm động lực thôi thúc chúng tôi nỗ lực xác định đâu là ngôi tháp chính đánh dấu sự kiện quan trọng về hạnh bố thí trác tuyệt (pāramita: पारमित), mà tiền thân Đức Phật đã thực hành ở một kiếp xa xưa.
Cơ sở kinh điển của sự kiện 
Câu chuyện tiền thân Đức Phật hiến thân cho hổ đói được lược thuật như sau. Ở một kiếp nọ, tiền thân Đức Phật làm một vị thái tử. Ngài có một tình thương lớn với mọi loài và đặc biệt rất quan tâm đến việc sẻ chia tài vật với những ai khốn khó. Nhân một lần du ngoạn chốn sơn lâm, thấy hổ mẹ vừa sinh nằm thoi thóp trong khe núi. Hổ mẹ đói lã do vừa sinh con nên không thể tự kiếm thức ăn. Đàn hổ con vừa sinh có nguy cơ chết yểu vì không có sữa để uống, hoặc có thể bị chính mẹ mình ăn thịt. Bàng hoàng và chấn động trước hiện cảnh nêu trên (Saṃvega:सवेग)3, thái tử đã mình tự trích huyết và hy sinh tính mạng để cứu mẹ con đàn hổ đói.
Sau khi nghe tin thái tử bố thí thân mình, vương hậu đã gạt lệ thương tâm, ra lệnh chôn cất những gì còn lại và lập tháp phụng thờ. Theo ghi nhận của ngài Pháp Thạnh (法盛) và cả ngài Huyền Tráng (玄奘), ngôi bảo tháp này rất linh hiển trong việc cầu y, trị bệnh nên được vương quan, dân chúng kính ngưỡng, tô bồi và tồn tại mãi đến ngày nay.
Tư liệu về sự kiện này xuất hiện trong những bản kinh, luận sau.
1- Kinh Lục-độ tập4, do Khương Tăng Hội (康僧會) dịch vào niên hiệu Thái Nguyên (太元) nguyên niên (251)5.
2- Kinh Tiền thế tam chuyển, do Sa-môn Pháp Cự (法炬) dịch ở thời Tây Tấn (西晉:265-316)6.
3- Kinh Hiền ngu7, do Sa-môn Tuệ Giác (慧覺) cùng nhiều vị khác dịch ở thời Nguyên Ngụy (元魏: 386-534).
4- Phật nói kinh nhân duyên xây tháp Bồ-tát hiến thân cho hổ đói8, do Sa-môn Pháp Thạnh (法盛) dịch ở thời Bắc Lương (北涼:401-439).
5- Kinh Kim quang minh9 do ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖: 385-433) dịch vào thời Bắc Lương, niên hiệu Huyền Thủy (玄始:412-428) 10.
6- Kinh Kim quang minh đế vương (Suvarṇaprabhāottamendrarājāsutra), do ngài Chân Đế (真諦:499-569) dịch vào niên hiệu Thái Thanh nguyên niên (547)11.
7- Kinh Kim quang minh tiện quảng thọ lượng đại biện Đà-la-ni do ngài Da-xá-quật-đa (耶舍崛多) cùng với ngài Xà-na-quật-da (闍那崛多) dịch ở thời Bắc Chu (北周: 557-581).
8- Hiệp bộ kinh Kim quang minh12. Bản kinh này do ngài Bảo Quý (寶貴), tổng hợp lại vào niên hiệu Khai Hoàng (開皇) năm thứ 17 (597)13.
9- Kinh Kim quang minh tối thắng vương kinh14 do ngài Nghĩa Tịnh (635-713) dịch vào niên hiệu Trường An năm thứ ba (703)15.
10- Luận Phân biệt công đức16, không rõ người dịch, niên đại Hậu Hán (後漢:23-220), là bản chú giải bốn phẩm đầu kinh Tăng nhất A-hàm17.
11- Luận Đại trí độ18, quyển thứ mười sáu, do ngài Long Thọ (龍樹) trước tác vào khoảng thế kỷ thứ hai19, được ngài Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什) dịch vào niên hiệu Hoằng Thủy (弘始) năm thứ sáu (404)20.
12- Bồ-tát Bổn sanh man luận21 do ngài Thánh Dũng (聖勇) và nhiều vị khác tạo, được dịch sang Hán tạng vào thời Bắc Tống (北宋:960-1127).
Trong mười hai nguồn tư liệu nêu trên, tư liệu có niên đại sớm nhất vào khoảng thế kỷ thứ hai và muộn nhất vào khoảng thế kỷ thứ mười. Đặc biệt, tư liệu của những bản kinh Kim quang minh có niên đại xuất hiện khá muộn, khoảng từ thế kỷ thứ năm đến thế kỷ thứ tám. Cần phải thấy rõ điều này vì cơ sở của bản kinh Kim quang minh có liên hệ đến Phật giáo ở Nepāl nói chung và ngôi bảo tháp ở Kathmandu nói riêng.
baothaptienthan (4).jpg
Bảng giới thiệu sự tích Bồ-tát hiến mình cứu hổ đói, bảo tháp Namo Buddha, Nepal
Về ngôi tháp cổ ở Kathmandu 
Trong thung lũng Kathmandu hiện nay có ba thánh tích được các công ty du lịch nội địa và nước ngoài quan tâm khai thác. Một trong ba điểm đến, đó chính là quần thể tu viện Thrangu Tashi Yangtse ở quận Kavre, cách trung tâm Kathmandu khoảng 45km, được xây dựng vào năm 1978, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Ngôi bảo tháp trong khuôn viên tu viện được xem là thánh tích kỷ niệm nơi Bồ-tát xả thân cứu mẹ con hổ đói, tiếng Tây Tạng gọi là Tagmo Lüjin, hoặc Stag mo lus sbyin, được dịch sang Anh ngữ là bảo tháp Namo Buddha22.
Vì bảo tháp được xây dựng nhằm đánh dấu nơi (marks the site) tiền thân Đức Phật đã bố thí thân mình cho mẹ con hổ đói, thế nên xung quanh ngôi bảo tháp, có nhiều bức phù điêu và kể cả hình tượng miêu tả cuộc hy sinh chấn động trời đất này. Ngày nay, bảo tháp này là một trong những điểm đến của những tour du lịch khám phá Kathmandu23. Là một thánh tích quan trọng liên quan đến tiền thân Đức Phật, nhưng những tư liệu làm cơ sở để xây dựng bảo tháp này còn rất mờ nhạt, không rõ ràng, mang quan kiến cá nhân. Điều này được bộc lộ từ những vấn đề sau.
* Thứ nhất, Nepāl là một tiểu quốc đã có mặt ở thời Phật tại thế, với tên gọi là nước Ni-bà-la (泥波羅國). Theo luật tạng của Hữu bộ24, khi Đức Phật đang ở Xá-vệ, vườn Cấp Cô Độc thì có lục quần Tỳ-kheo muốn đến nước Ni-pa-la. Trên đường đi thì gặp xe chở lông dê của thương nhân bị hư chốt gãy trục, các vị Tỳ-kheo này được cúng dường lông dê bèn vác lên vai mà đi (自擔而去) trên một quảng đường dài. Nhân đó, Phật đã chế giới, cho phép Tỳ-kheo chỉ được mang lông dê không quá ba Du-thiện-na (踰膳那:Yojana:9 miles25), nếu quá, thì phạm Ba-dật-đề. Chúng tôi vẫn chưa tìm thấy dấu hiệu Đức Phật đã từng đến nước Ni-bà-la (泥波羅國) trong kho tàng kinh điển Phật giáo, ở Nam truyền và cả Bắc truyền. Không những vậy, tiểu quốc này nằm ở khu vực rất trở ngại về giao thông và đầy chướng khí. Theo ghi nhận của ngài Nghĩa Tịnh trong Đại Đường Tây vức cầu pháp cao tăng truyện26, đường đi Tây vức cầu pháp có hai con đường, đường thủy và đường bộ. Đường bộ phải đi xuyên qua nước Ni-bà-la (泥波羅國) mới đến được Ấn Độ. Theo ngài Nghĩa Tịnh, đất nước này tựa hồ có độc dược, vì có nhiều vị thầy đã chết khi đi đến đây (泥波羅既有毒藥.所以到彼多亡也). Khảo tác phẩm của ngài Nghĩa Tịnh cho thấy, nhiều bậc cao tăng đã tử nạn hết mực thương tâm tại nơi này như Pháp sư Đạo Sanh (道生法師), Pháp sư Mạt-để-tăng-ha (末底僧訶), Pháp sư Huyền Hội (玄會)…
Trong khi đó, theo lịch sử Nepāl (History of Nepāl) biên soạn bằng ngôn ngữ Nepāl (Parbatiyā) do Daniel Wright biên tập và phiên dịch, cho rằng, Đức Phật đã từng đến nơi này cùng với chúng Tăng, là điều chưa được chứng thực bằng di chỉ hay kinh văn khả tín mà chỉ qua truyền khẩu27. Ngay cả bậc thầy đi tiên phong trong nghiên cứu về lịch sử Nepāl, là ông Sylvain Lévi cũng thể hiện sự nghi ngờ khi cho rằng, Đức Phật chưa từng đặt chân đến Nepāl, được ghi nhận trong tác phẩm khảo cứu lịch sử Le Népal: Étude Historique d’un Royaume Hindou28.
Một đất nước tự cho rằng Đức Phật đã từng quang lâm thuyết giáo, nhưng cơ sở khoa học chỉ dựa vào lòng tin; một cung đường xuyên quốc gia đầy lam sơn chướng khí với nhiều đoàn chiêm bái từng qua đây, nhưng chưa một ai ghi nhận bất cứ dấu hiệu nào về ngôi bảo tháp tiền thân Đức Phật hiến thân cho hổ đói. Đây là cơ sở thứ nhất cho thấy, ngôi tháp này có khả năng xuất hiện về sau.
* Thứ hai, ngài Huyền Tráng là bậc thầy về điền dã, đi đến đâu, ngài đều ghi chép rõ ràng, từ những sự kiện nhỏ nhặt trong chốn nhân gian cho đến những chứng tích liên quan đến Phật pháp. Khi đến Nepāl, ngài ghi chép nhiều dữ kiện, nhưng tuyệt nhiên không hề có dấu hiệu nào liên quan đến ngôi tháp tiền thân Đức Phật hiến mình. Cụ thể, trong Đại Đường Tây vức ký, quyển bảy ghi:
Nước Ni-bà-la nằm trong núi Tuyết có chu vi hơn bốn ngàn dặm. Đô thành của đất nước có chu vi hơn hai mươi dặm. Sông núi nối tiếp nhau nên thuận tiện trong việc trồng tỉa hoa màu, khai thác đồng đỏ, chăn thả bò yak ( 犛牛), nuôi chim Kỳ-bà-kỳ-bà (耆婆耆婆: 命命鳥). Mua bán thì sử dụng đồng tiền bằng đồng đỏ, khí tiết lạnh lẽo, phong tục dị thường, nhân tình ương ngạnh, khinh bạc đạo nghĩa. Không học nghề tinh chuyên nhưng có chút khéo léo. Tướng mạo khó coi, tin cả tà chánh. Già-lam hoặc miếu Trời đều có tường bao quanh. Tăng chúng trên hai ngàn người theo học cả Tiểu thừa và Đại thừa. Các tôn giáo khác thì không rõ số lượng. 
Vua ở giai cấp Sát-đế-lợi thuộc dòng dõi Lật-chiếp-bà (栗呫婆: 離車: Licchavi), học vấn cao vời, thuần tín Phật pháp. Vị vua trị vì gần đây hiệu là Ương-thâu-phạt-ma (鴦輸伐摩:अंशुवर्मा: Aṃsuvarmā: ?-61629), ngôn ngữ nhà Đường gọi là Quang Trụ (光胄) thông minh uyên bác, tự sáng tác luận Thanh minh (聲明論), trọng kẻ hiền tài, kính bậc đức độ, xa gần đều nghe danh. 
Phía Đông nam đô thành có ao nhỏ, dùng mồi lửa (人火)30 ném vào thì nước liền bốc cháy, nếu ném thêm bất cứ thứ gì đều hóa thành lửa đỏ31
Sự ghi nhận về nhân thân của vua Ương-thâu-phạt-ma (鴦輸伐摩) cũng như chu vi của thung lũng Nepāl, đã khẳng định rằng, ngài Huyền Tráng đã từng đặt chân đến đó và không ghi nhận bất cứ thông tin gì về ngôi bảo tháp thái tử xả thân.
baothaptienthan (3).jpg
Chư Tăng nhiễu tháp Namo Buddha, Nepal
* Thứ ba, nội dung câu chuyện tiền thân Đức Phật hiến thân cho mẹ con hổ đói xuất hiện trong nhiều nguồn tư liệu ở trên và đặc biệt là ở kinh Kim quang minh. Với Phật giáo Nepāl, kinh Kim quang minh, Tạng ngữ ghi là Gser-’od dam-pa’i mdo32, là một trong chín bộ pháp bảo cao quý (Nine dharma jewels) của Phật giáo nước này33.
Trong quá trình khảo cứu bản kinh Kim quang minh phiên bản tiếng Mông Cổ (Mongolian version) tác giả Pentti Aalto đã phát hiện ra rằng, có nhiều bản kinh Kim quang minh bằng tiếng Tây Tạng (Tibetan). Bản thứ nhất có niên đại vào khoảng giữa thế kỷ thứ tám. Bản thứ hai được dịch trực tiếp từ ngôn ngữ Sanskrit, vào triều đại vua Ral-pa-čan (804-816). Bản thứ ba được dịch lại từ tiếng Trung Hoa theo bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh. Bản thứ tư rời rạc từng phần và thu thập từ nhiều nguồn khác nhau34.
Theo khảo cứu của Wylie và Turrell trong tác phẩm Tín ngưỡng Tây Tạng trên xứ sở Nepal (A Tibetan Religious Geography of Nepal) thì cơ sở hình thành ngôi bảo tháp Hiến thân cho hổ mẹ (Giving the body to the tigress) được dựa trên kinh Kim quang minh tối thắng vương của ngài Nghĩa Tịnh qua bản dịch tiếng Tây Tạng, chương thứ XVIII với tên gọi là Stag-Moi Leu35. Chúng tôi đã phối kiểm nguyên tác bản kinh này do Johannes Nobel biên tập (Herausgegeben), và xác tín rằng, đoạn trích dẫn đó hoàn toàn chính xác36.
Như vậy, từ những cứ liệu đã minh chứng ở trên, đặc biệt là căn cứ vào niên đại bản kinh Kim quang minh tối thắng vương phiên bản Hán ngữ và Tạng ngữ, đã cho thấy rằng, cơ sở hình thành ngôi bảo tháp Tagmo Lüjin, hoặc Stag mo lus sbyin, hoặc Namo Buddha xuất hiện khá muộn, ít nhất là vào khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ thứ VIII, tức là sau khi bản kinh này phiên dịch sang tiếng Tây Tạng và sau đó được quảng bố, lưu hành.
Về ngôi tháp cổ ở Gandhāra 
Gandhāra là một khu vực thuộc Bắc Ấn gồm nhiều tiểu quốc ở thời Phật và đã có một thời hoàng kim của Phật giáo. Tại đây, có ngôi bảo tháp đánh dấu tiền thân Đức Phật hiến mình cho hổ đói, được nhiều nguồn tư liệu của các bậc cao tăng ghi nhận, sau đó được khai quật và xác tín bởi những nhà khảo cổ ngày nay.
Trước hết, theo ghi nhận của ngài Pháp Hiển (法顯:337-422), vào niên hiệu Long An (隆安) năm thứ ba (399) thời Đông Tấn, ngài Pháp Hiển cùng các vị đồng học như Tuệ Cảnh, Đạo Chỉnh, Tuệ Ứng…phát nguyện Tây du37. Xuyên qua hơn ba mươi quốc gia và khu vực (凡所經歷三十餘國), ngài có dừng chân ở nước Trúc-sát-thi-la (竺剎尸羅: Takṣaśilā) ở Bắc Ấn. Tại đây, ngài Pháp Hiển đã ghi nhận:
Nước mang tên Trúc-sát-thi-la (竺剎尸羅). Trúc-sát-thi-la Hán dịch là Cắt đứt đầu (截頭). Khi Phật còn ở địa vị Bồ-tát, đã bố thí đầu mình ở chốn này nên lấy đó làm tên. Từ đây đi theo hướng Đông khoảng hai ngày thì đến chỗ (Bồ-tát) bố thí thân mình cho hổ đói. Hai nơi này đều xây tháp lớn, dùng các thứ trân bảo để trang nghiêm. Các quốc vương và dân chúng đã rải hoa, thiêu hương tranh nhau cúng dường mãi không ngớt.
Theo Tứ phần luật danh nghĩa tiêu thích (四分律名義標釋) của ngài Hoằng Tán (弘贊:1611-1685), thì nước Trúc-sát-thi-la (竺剎尸羅) chính là tên gọi của một thành thuộc nước Càn-đà-la (Gandhāra)38.
Như vậy, ngay ở thế kỷ thứ tư, thông tin về ngôi tháp Bồ-tát hiến thân cho hổ đói đã được ngài Pháp Hiển xác nhận xây dựng ở Gandhāra.
baothaptienthan (2).jpg
Bảo tháp Mankiala, thuộc Pakistan
Thứ hai, căn cứ vào tác phẩm Phật nói kinh nhân duyên xây tháp Bồ-tát hiến thân cho hổ đói, do Sa-môn Pháp Thạnh (法盛:406-479) dịch ở thời Bắc Lương (北涼: 401-439) ngoài việc cung cấp một dị bản sinh động về câu chuyện tiền thân Đức Phật bố thí thân mình cho hổ đói, mà qua đó còn xác định vài điều liên quan đến dư địa lý của ngôi tháp này. Theo kinh, Đức Phật đã từng đến Gandhāra, bản kinh này gọi là nước Càn-đà-việt (乾陀越國)39.
Theo ngài Trí Thăng (智昇) trong tác phẩm Khai nguyên thích giáo lục, quyển thứ tư đã viết về Sa-môn Pháp Thạnh như sau.
Sa-môn Thích Pháp Thạnh là người Cao Xương (高昌), đã dịch kinh Hiến thân cho hổ đói (投身餓虎經) gồm một quyển ở thời nhà Lương. Trước đó, trong phần cuối của truyện về ngài cao tăng Đàm-vô-sấm có ghi: Lúc đó có Sa-môn Pháp Thạnh ở Cao Xương trong khi du lãm các nước đã ghi chép lại thành bốn quyển truyện. Hoặc trong phần cuối của kinh Hiến thân cho hổ đói ghi, lúc ấy quốc vương nghe Phật dạy xong, liền xây tháp lớn ở ngay chốn đó, gọi tên là tháp Bồ-tát hiến thân cho hổ đói. Ngày nay (thời ngài Pháp Thạnh – người viết chú) bên ngôi tháp này quan sát (今見在塔), hướng Đông thì đối diện với núi, phía dưới có tinh xá, nhà Tăng, giảng đường. Thường có năm ngàn chúng Tăng với đầy đủ bốn món cúng dường. Lúc này, ngài Pháp Thạnh thấy dân chúng ở các nước nếu gặp phải những tật bệnh như điên cuồng, mù, điếc, hủi, chân tay tật nguyền cùng các thứ tật bệnh khác đều đến bên tháp sửa sang quét tước, dùng hương làm đàn, thắp đèn, đốt hương chí thành lễ bái sám hối thì mọi bệnh tật đều chóng khỏi40.
Theo ghi nhận trong Cao tăng truyện, ngài Pháp Thạnh sống cùng thời với ngài Đàm-vô-sấm, do vậy ngôi bảo tháp Hiến thân cho hổ đói ở Gandhāra lại tiếp tục được ghi nhận ở thế kỷ thứ năm.
Thứ ba, một trong những cơ sở làm bằng chứng để các nhà khảo cổ dựa vào đó tìm kiếm những thánh tích Phật giáo bị thời gian phủ kín, chính là những ghi chép của ngài Huyền Tráng trong tác phẩm Đại Đường Tây vức ký. Liên quan đến ngôi cổ tháp Bồ-tát hiến mình cho hổ đói, ngài Huyền Tráng đã ghi:
Từ đây trở về phía Bắc nước Đát-xoa-thủy-la (呾叉始羅: तक्षशिला: Takṣaśilā), vượt qua sông Tín-độ (信度:Indus), đi khoảng hai trăm dặm về hướng Đông nam, ngang qua cổng đá lớn (大石門), là chốn xưa kia vương tử Ma-ha-tát-đỏa đã hiến mình cho hổ đói (餓烏擇)41, khoảng một trăm bốn mươi đến một trăm năm mươi bộ về hướng Nam có một tháp đá, là nơi Ma-ha-tát-đỏa thương cảm loài thú đói không còn sức lực nên đã đến đó bẻ tre khô tự cắt thân mình, lấy máu mớm cho hổ đói, nhờ vậy mãnh thú gượng dậy mà ăn thịt thái tử. Đất đai nơi đây cho đến cỏ cây đều ẩn tàng một màu đỏ thẩm giống như bị thấm máu vậy. Hành trạng của Bồ-tát cũng như phong thổ nơi đây nếu ghi lại thì người đời sẽ tin tưởng không nghi, nghe qua không ai không thương cảm.
Phía Bắc nơi Bồ-tát xả thân có một ngôi tháp đá, cao hơn hai trăm thước do vua A Dục xây dựng, điêu khắc tinh tế, quang minh rạng ngời, trang trí bằng nhiều tháp nhỏ và vô số khám thờ bằng đá bao quanh. Nếu ai có bệnh, nhiễu quanh tháp này thì bệnh tật phần lớn sẽ thuyên giảm42.
baothaptienthan (5).JPG
Di vật được khai quật trong bảo tháp Mankiala, Pakistan
Thứ tư, công cuộc khảo sát những công trình Phật giáo cổ xưa ở Gandhāra được tiến hành vào thế kỷ XIX và đã phát hiện hàng loạt những di tích quan trọng. Trong số đó các nhà khảo cổ đã tìm thấy một ngôi tháp lớn ở làng Mankiala nên gọi tháp Mankiala. Ngày nay, bảo tháp này được xác định chính xác ở Pakistan, tỉnh Punjab, quận Rawalpindi, nằm trên tọa độ 33°26’53.12”N, 73°14’36.59”E.
Ngôi tháp này được phát hiện vào năm 1830 do Jean Baptister Vetura (1794-1858), một tướng quân người Ý, khi đang thực hiện sứ mạng cho cơ quan Maharaja Ranjit Singh of Punjab. Ông đã phát hiện ra ngôi tháp này cùng những đồng tiền cổ thời Kushan (3-373 AD)43. Sau đó, công cuộc khảo sát bảo tháp Mankiala được ngài Alexander Cunningham (1814-1893) và Hội Khảo cổ học Ấn Độ (The Archaeological Survey of India) tiếp tục thực hiện. Đặc biệt, thông qua huyền thoại và truyền thuyết dân gian lưu truyền về quá trình hình thành ngôi tháp, cộng với những bằng chứng xác thực, ngài Alexander Cunningham đã xác quyết rằng, ngôi tháp này chính là bảo tháp mà tiền thân Đức Phật đã hiến mình cứu đàn hổ đói như ghi nhận trước đó của ngài Huyền Tráng44.
Nhận định 
Bằng chứng của nhiều ngành khoa học ngày nay đã góp phần khẳng định rằng, Đức Phật là một nhân vật lịch sử. Vì vậy, các điều kiện làm nên Đức Phật mà ở đây là hành động bố thí thân mạng cho hổ đói, cũng là một sự thật gắn liền với lịch sử.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của Phật giáo, do ảnh hưởng của văn hóa bản địa, do mong mỏi phát triển Phật giáo ở những vùng đất đặc thù và đôi khi do ảnh hưởng bởi quan kiến cá nhân, đã góp phần hình thành nên những biểu tượng liên quan đến Đức Phật, nhưng không gắn với sự thật lịch sử.
Khảo về hai ngôi bảo tháp đánh dấu sự kiện Đức Phật hiến mình cho hổ đói, một ở thung lũng Kathmandu và một ở Pakistan đã cho thấy, ngôi tháp Mankiala ở Pakistan có cơ sở lịch sử từ thời vua A-dục, được nhiều nhà chiêm bái như Pháp Hiển, Pháp Thạnh, Huyền Tráng ghi nhận và được ngành khảo cổ ngày nay chứng minh bằng những tư liệu khoa học, khả tín.
Trong khi đó, căn cứ vào lịch sử Phật giáo thuộc vùng đất Kathmandu, ghi chép của các nhà chiêm bái như Huyền Tráng, Nghĩa Tịnh…khi đi qua đây và đặc biệt là niên đại xuất hiện của kinh Kim quang minh ở Nepāl, đã góp phần khẳng định rằng, ngôi tháp Namo Buddha ở Kathmandu có niên đại hình thành muộn hơn và thiếu nhiều tư liệu lịch sử liên quan để bảo chứng.
Chúc Phú
________________
(1)大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第三. Nguyên văn:捨身北有石窣堵波,高二百餘尺,無憂王之所建也.
 
(2) Abigail Eliza Martin. Bodily transfer and sacrificial gestures: rethinking the Hungry Tigress Jataka in Mogao Cave 254. Thesis MA. Department of Art and Art History The University of Utah. 2014. p.19.
 
(3) Monier-Williams, M. A. Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p. 1115; Buddhadatta Mahāthera A.P. Consice Pāli-English Dictionary. Sri Lanka: University of Ceylon, 1949. p. 292.
 
(4) 大正藏第 03 冊 No. 0152 六度集經,卷第一, 四.
 
(5) 大正藏第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, 卷第三.
 
(6) 大正藏第 03 冊 No. 0178 前世三轉經.
 
(7) 大正藏第 04 冊 No. 0202 賢愚經, 卷第一, 摩訶薩埵以身施虎品.
 
(8) 大正藏第 03 冊 No. 0172 菩薩投身飴餓虎起塔因緣經.
 
(9) 大正藏第 16 冊 No. 0663 金光明經.
 
(10) 卍新續藏第 20 冊 No. 0361 金光明經照解, 卷上.
 
(11)大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第三十七.
 
(12)大正藏第 16 冊 No. 0664 合部金光明經.
 
(13)大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第七.
 
(14)大正藏第 16 冊 No. 0665 金光明最勝王經.
 
(15)大正藏第 49 冊 No. 2037 釋氏稽古略, 卷三. Nguyên văn: 長安三年譯金光明最勝王等經百一羯磨等.
 
(16)大正藏第 25 冊 No. 1507 分別功德論.
 
(17)大正藏第 55 冊 No. 2145 出三藏記集, 卷第四. Nguyên văn: 分別功德經五卷(一名增一阿含經疏迦葉阿難造).
 
(18)大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論.
 
(19)大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第五, 十三祖龍樹尊者.
 
(20)大正藏第 49 冊 No. 2034 歷代三寶紀, 卷第八.
 
(21)大正藏第 03 冊 No. 0160 菩薩本生鬘論.
 
(22) http://namobuddha.org/
 
(23) http://www.nepaladventuretrip.com/nepal/namobuddha-kathmandu-valley-trekking.html
 
(24)大正藏第 24 冊 No. 1458 根本薩婆多部律攝, 卷第六; 大正藏第 23 冊 No. 1442 根本說一切有部毘奈耶, 卷第二十一.
 
(25) M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield,VA: Nataraj Books, 2014, p.858.
 
(26) 大正藏第 51 冊 No. 2066 大唐西域求法高僧傳.
 
(27) Munshī Shew Shunker Singh-Pandit Shrī Gunānand. History of Nepal. Daniel Wright ed. Cambrigde: At the University Press. 1877. p.110.
 
(28) Sylvain Lévi.Le Népal: Étude historique d’un royaume hindou. Vol 2. Paris: Ernest Leroux Éditeur 1905. p.63.
 
(29) D. B. Shrestha, C.B.Singh. The History of Ancient and Medieval Nepal in a Nutshell With Some Comparative Traces of Foreign History. Kathmandu: HMG Press. 1972.p.13.
 
(30) Theo Tả Truyện (左傳) :凡火,人火曰火,天火曰災.
 
(31)大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第七. Nguyên văn:尼波羅國,周四千餘里,在雪山中.國大都城周二十餘里.山川連屬,宜穀稼,多花菓,出赤銅,犛牛,命命鳥.貨用赤銅錢.氣序寒烈,風俗險詖,人性剛獷,信義輕薄.無學藝,有工巧.形貌醜弊,邪正兼信.伽藍,天祠接堵連隅.僧徒二千餘人,大小二乘,兼功綜習.外道異學,其數不詳.王,剎帝利栗呫婆種也.志學清高,純信佛法.近代有王,號鴦輸伐摩(唐言光胄).碩學聰叡,自製 “聲明論”,重學敬德.遐邇著聞. 都城東南有小水池,以人火投之,水即焰起,更投餘物,亦變為火.
 
(32) Wylie, Turrell. A Tibetan Religious Geography of Nepal. Roma: Instituto italiano per il Medio ed Estremo Oriente, 1970. p.24.
 
(33) Will Tuladhar-Douglas. Remaking Buddhism for Medieval Nepal: The Fifteenth-Century Reformation of Newar Buddhism. London: Routledge, 2006. p.86.
 
(34) Pentti Aalto.Notes on the Altan Gerel (the Mongolian Version of the Suvarnaprabhāsa-sūtra). Hensinki:Societas Orientalis Fennica. 1950.p.4.
 
(35) Wylie, Turrell. A Tibetan Religious Geography of Nepal.Roma: Instituto italiano per il Medio ed Estremo Oriente, 1970. p.24.
 
(36) Johannes Nobel. Suvarnaprabhasottama Sutra. Leiden: E.J. Brill. 1944.p. 154-174.
 
(37) 大正藏第 50 冊 No. 2059 高僧傳,卷第三, 釋法顯一.
 
(38) 卍新續藏第 44 冊 No. 0744 四分律名義標釋, 卷第十一. Nguyên văn:北天竺乾陀羅國城名也.
 
(39) 大正藏第 03 冊 No. 0172 菩薩投身飴餓虎起塔因緣經.
 
(40) 大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第四. Nguyên văn:沙門釋法盛.高昌人也.亦於涼代譯投身餓虎經一卷.故前高僧曇無讖傳末云.于時有高昌沙門法盛.亦經往外國有傳四卷.其投身餓虎經後記云.爾時國王聞佛說已.即於是處起立大塔.名為菩薩投身餓虎塔.今見在塔.東面山下有僧房講堂精舍.常有五千眾僧四事供養.法盛爾時見諸國中.有人癩病及癲狂聾盲手脚躄跛.及種種疾病悉來就此塔.燒香燃燈香泥塗地.修治掃灑并叩頂懺悔.百病皆愈.
 
(41) Cụm từ này dễ bị hiểu nhầm. Trong Đại tạng kinh nhiều thời kỳ, đã sử dụng chữ 莵 thay thế chữ 烏擇. Theo Từ điển Khang Hy, người nước Sở dùng chữ 虎để chỉ cho莵 (楚人謂虎爲於菟). Cũng theo kinh Kim quang minh chiếu giải, ngài Tông Hiểu (宗曉:1151-1214) đã giải thích vì sao chữ 莵 được dùng thay cho chữ虎. Xem, 卍新續藏第 20 冊 No. 0361 金光明經照解, 卷下. Nguyên văn: 見有一虎說文曰虎山獸之君也或名白額侯方言謂陳魏宋楚之間以虎為李父江淮南楚以虎為李耳亦曰於菟見左傳準玄奘三藏傳西域虎稱烏擇(音徙).
 
(42) 大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第三. Nguyên văn: 從此復還呾叉始羅國北界,渡信度河,南東行二百餘里,度大石門,昔摩訶薩埵王子,於此投身飤餓烏擇(音徒).其南百四五十步有石窣堵波,摩訶薩埵愍餓獸之無力也,行至此地,乾竹自刺以血啗之,於是乎獸乃噉焉.其中地土,洎諸草木,微帶絳色,猶血染也.人履其地,若負芒刺,無云疑信,莫不悲愴.捨身北有石窣堵波,高二百餘尺,無憂王之所建也.雕刻奇製,時燭神光.小窣堵波及諸石龕動以百數周此塋域,其有疾病,旋繞多愈.
 
(43) Jason Emmanuel Neelis. Early Buddhist Transmission and Trade Networks. Vol 2. Boston: Leiden, Brill. 2011 p.201. See also: HISTORIA I ŚWIAT, nr 4 (2015). Abhijeet Kuma. Looking at Gandhāra. p.439.
 
(44) Population census of Pakistan 1961. District Census Report Rawalpindi. Part I-V.p.21. Cf: About 14 miles south of Rawalpindi and three miles from Rewat lie the ruins of Mankiala. Raja Man or Manik, is said to have built the great stupa to the south of this village. The old town is usually said to have been called Manikpur or Maniknagar. And it is so named in most versions of the legend or Rasalu according to which it was the residence of Rakshasas, or demons, in the old city to the north of the great lope. The legend of Rasalu runs as follows:-Rasalu, son of Salivahana, Raja of Sialkot, was the enemy of the seven rakshasas who lived at Manikpur, or Udinagar, to the west of the Jhelum. Every day these rakshasas ate a man, the victim being drawn by lot from the people of Manikpur. One day Rasalu came to the city where he found a woman cooking her food, and alternately weeping and singing. Astonished at her strange behaviour, Rasalu addressed the woman, who replied: “ I sing for joy, because my only son is to be married today, and I weep for grief because he has been drawn by lot as the victim of the rakshasas”. “Weep no more”, said Rasalu “ and keep your son, for f will encounter the rakshasas.” Accordingly Rasalu offered to take the place of the victim and went forth to meet the seven demons. He boldly attacked them and killed them all, except Thera, who is said to be still a live in a cavern of Gandgarh.This legend General Cunningham identifies with the Buddhist legend of Sakay’s offering of his body to appease the hunger of seven tiger cubs. The scene of this legend is placed by Hiwen Tsang 33 miles to the south-east of Taxila,which is the exact bearing and distance of Mankia la from the mined city near Shahdheri.