Trong nhà Phật, hoàn toàn không có khái niệm hiệp nhất gì hết, vì tất cả pháp đều vô ngã, vì thực tướng là vô ngã, cho nên nói là bất nhị, nhưng không phải là bất nhị, cũng không phải là phi-bất-nhị. Chỉ muốn nói rằng hễ nó như thế, là nó như thế.
Rỗng rang, an trú KHÔNG
Thiền Tông Việt Nam, trong truyền thống, chủ trương pháp đốn ngộ. Trong đó, trước tiên là nhận ra bản tâm chính là tánh không rỗng rang. Và do vậy, lấy Bát Nhã Tâm Kinh làm một phần không thể thiếu vắng trong các kinh nhật tụng. Thiền Tông dạy rằng trước tiên phải ngộ, phải thấy tánh, tức là thấy cái Không của các pháp, và sau khi biết thì cứ lẳng lặng an trú Không. Không này là gì ở cõi này? Thực sự là Duyên khởi, vì các pháp đều vô ngã. Nhưng đây không phải lý luận, mà phải thấy bằng mắt, nghe bằng tai, cảm bằng toàn thân. Không này là vô thường, là duyên khởi. Nghiêng đầu qua trái, qua phải, nhìn sau, nhìn trước đều thấy nghe hay biết và cảm nhận các pháp rỗng rang trong dòng chảy vô thường. Nói KHÔNG, hoàn toàn không có nghĩa là Không Có. Mà Không này là lìa cả Hữu, Vô.
Kinh SN 35.85, ghi lời Đức Phật dạy: Thế giới rỗng rang không tự ngã, mắt (tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều rỗng rang không tự ngã… Nhãn thức (nhĩ thức…) đều rỗng rang không tự ngã… (5)
Trong Trung Bộ, Đức Phật dạy chi tiết tuần tự trong Kinh MN 121 (Cula-suññata Sutta: The Lesser Discourse on Emptiness – Kinh Tiểu Không) về An Trú Không. Trước tiên, Đức Phật dạy ngài Ananda rằng chớ tưởng (hình dung) về ngôi làng, chớ tưởng về người, chỉ tưởng về cảnh rừng hoang dã, lúc đó trong tâm chỉ có tưởng là cảnh rừng hoang, rồi từ đây tưởng về mặt đất phẳng (không núi đồi sông hồ gì), từ đây tưởng về không gian vô tận và vào rỗng rang thanh tịnh… tuần tự, hình dung rằng thức trải rộng vô biên… tất cả trở thành không, nếu thấy cái gì còn, thì nghĩ rằng “cái này có hiện diện” vì còn duyên vào thân tâm của mình. Và Đức Phật dặn: “Ananda, you should train yourselves: ‘We will enter & remain in the emptiness that is pure, superior, & unsurpassed.’” (Ananda, hãy tự tu thế này: Chúng ta sẽ vào, sẽ an trú trong cái Không, mà cái Không này rất mực thanh tịnh, siêu xuất và không gì cao hơn.) (5)
Nếu chúng ta muốn tìm lời dạy đơn giản và dễ nhớ, Đức Phật cũng dạy ngài Mogharaja trong Kinh Tiểu Bộ, Snp 5.15 (trong Nhóm Kinh Nhật Tụng khi Đức Phật còn sinh tiền):
“Luôn luôn tỉnh thức, nhìn thế giới như là RỖNG KHÔNG, Moghraja; gỡ bỏ bất kỳ quan điểm vào về tự ngã; như thế ngươi sẽ vượt qua sự chết. Nhìn thế giới như thế, ngươi sẽ không bị Thần Chết nhìn thấy.” (5)
(Bản dịch Ireland: Look upon the world as empty, Mogharaja, ever mindful; uprooting the view of self you may thus be one who overcomes death. So regarding the world one is not seen by the King of Death. Bản dịch Thanissaro Bhikkhu: Always mindful, Mogharaja, regard the world as empty, having removed any view in terms of self. This way, one is above and beyond death. One who regards the world in this way isn’t seen by Death’s King.)
Tương tự, Kinh Snp 5.14 trong Kinh Tập, Kinh Tiểu Bộ, ghi lời ngài Posala ca ngợi Đức Thế Tôn, theo bản dịch của Thanissaro Bhikkhu:
“Tôi thỉnh vấn Đức Thích Ca về kiến thức của người đã xa lìa tưởng về sắc uẩn, người đã buông bỏ toàn bộ thân, tất cả thân, người thấy cả trong và ngoài, ‘Không có gì hết’…”
(I ask the Sakyan about the knowledge of one devoid of perception of forms, who has abandoned all the body, every body, who sees, within & without, ‘There is nothing’) (5)
Trong ngoài đều thấy là Không… tức là Bát Nhã Tâm Kinh vậy. Thấy trong và ngoài đều không, cũng là bất lập văn tự vậy.
Như thế, các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam hiển nhiên là đã tu theo Kinh Nhật Tụng Sơ Thời.
Vì ngài Vô Ngôn Thông (759?-826) là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, sang Việt Nam năm 820, ở tại chùa Kiến Sơ (bây giờ thuộc Hà Nội), truyền pháp, dòng thiền của ngài kéo dài được 17 thế hệ…. Sách kể rằng, ngài Vô Ngôn Thông hốt nhiên triệt ngộ khi nghe Bách Trượng trả lời một vị tăng:
“Tâm địa nhược KHÔNG, huệ nhật tự chiếu.” (Đất tâm nếu rỗng rang, thì mặt trời trí huệ tự chiếu sáng.)
Hai câu, tám chữ này đã tóm gọn Kinh Snp 5.15. Bản dịch của quý Thầy Thích Thanh Từ, Thích Duy Lực, GS Lê Mạnh Thát đều ghi là “tâm địa nhược KHÔNG.” Tuy nhiên, một vị sư Việt Nam nổi tiếng viết là “tâm địa nhược THÔNG,” và ngài giải thích theo nghĩa chữ THÔNG (tức thông suốt), và sách phổ biến khắp nơi. Nơi đây, người viết không tiện ghi links để tránh bị ngộ nhận là đa sự, bất lợi cho việc hoằng pháp. Nhưng không thể không ghi chú nơi đây.
Trong khi đó, sách Bát Nhã Tâm Kinh Trực Giải, trang 18-19, do ngài Minh Chánh Thiền Sư (Thiền sư Việt Nam thế kỷ 19) viết, bản dịch Thiền Viện Thường Chiếu, trích như sau:
“Nay nói Sắc chẳng khác không là lúc nhãn căn thấy sắc, quán sắc cũng như bóng, rõ sắc vốn không nhãn căn như gương sáng trong sáng không có hình tượng, sắc tướng như bóng, bóng tuy hư giả mà toàn bóng là gương, cũng như sắc tuy huyễn vọng mà toàn sắc là tự tánh chiếu kiến của Chân không Như lai tạng, cho nên nói: Sắc chẳng khác không. Câu nầy nhằm phá phàm phu chấp sắc là có, chẳng biết nghĩa sắc tức là không. Chấp thấy là ta có thấy, chẳng biết cái thấy từ nơi sắc hiện, sắc từ nơi thấy mà sanh. Sắc tướng là bóng huyễn hóa như hoa đốm trong hư không, cái thấy là sự mỏi nhọc của con mắt bệnh. Sắc tướng còn không, cái thấy từ đâu mà có. Nên tuy nói sắc tức là không mà gồm trừ luôn cả cái thấy, đó là cái thấy cũng tức là không. Hãy tham!
…Sắc tức là không nghĩa là sắc tuy có tướng mà vốn không. Tại sao vốn không? Vì bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Cũng như hoa đốm trong hư không, hoặc sóng nắng đều nương vào hư không mà có tướng. Tướng chính là vô tướng, nên nói sắc tức là không.” (5)
Thiền sư Minh Chánh hiển nhiên là siêu xuất tuyệt vời, viết tới như thế quả là thần sầu quỷ khốc. Đọc xong cuốn Bát Nhã Tâm Kinh Trực Giải của ngài, hiển nhiên là không còn chỗ nào ngờ vực trong Kinh Phật nữa.
Như thế, sẽ thấy tương hợp bất ngờ khi nghe một Thiền sư Thái Lan, ngài Ajahn Chah, giải thích về Không Tam Muội.
Để gợi nhớ, cũng nên nhắc rằng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, kể về chuyện khi gió thổi, lá phướn động, một vị tăng nói gió động, một vị tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động.” Chỗ này không có gì bí ẩn đối với người trong cửa Thiền Tông. Điều bất ngờ là một vị sư nổi tiếng của Thái Lan, ngài Ajahn Chah, trong bài thuyết giảng được ghi âm và đánh máy lại, “Bodhinyana: A Collection of Dhamma Talks. Part 4 – The Empty Flag,” đã nhắc chuyện phướng và gió để giải thích:
“Đây là pháp tu, rằng chớ [cho là] có bất cứ thứ gì, dù là lá cờ hay gió. Nếu có lá cờ, thì là có gió. Nếu có gió, thì là có lá cờ. Ngươi nên chiêm nghiệm và tư duy chỗ này kỹ càng, cho tới khi người thấy phù hợp với Sự Thật. Nếu suy nghiệm kỹ, thì sẽ không còn gì hết. Nó rỗng rang, nó trống không; rỗng rang không có lá cờ, rỗng rang không có gió. Trong cái Không lớn vô cùng, không có lá cờ, không có gió. Không có sinh, không có già, không có bệnh hay chết. Hiểu biết quy ước của chúng ta về cờ và gió chỉ là khái niệm. Trong thực tại, không có gì hết. Thế thôi. Không có gì hơn các nhãn hiệu rỗng.” (5)
Nghe ngài Ajahn Chah qua lời trên, y hệt như đang dạy tham thoại đầu để trực ngộ Tánh Không. Đúng là ngôn phong Huệ Năng.
Bất nhị
Chúng ta thường nghe về Bất Nhị, tức là Không Hai. Tuy nhiên, nên cẩn trọng, vì hai chữ này mang nhiều nghĩa, tùy người sử dụng.
Trong các đạo Cơ Đốc, thường dùng chữ Hiệp Nhất, nghĩa là khi kẻ thụ tạo hiệp thông với Đấng Tạo Hóa. Trong Ấn Độ Giáo cũng tương tự, dùng chữ Bất Nhị là khi Tiểu Ngã hòa vào Đại Ngã. Do Thái Giáo cũng có khái niệm Bất Nhị.
Trong nhà Phật, hoàn toàn không có khái niệm hiệp nhất gì hết, vì tất cả pháp đều vô ngã, vì thực tướng là vô ngã, cho nên nói là bất nhị, nhưng không phải là bất nhị, cũng không phải là phi-bất-nhị. Chỉ muốn nói rằng hễ nó như thế, là nó như thế. Gọi là Như Thị, hay gọi tắt là Như cũng được. Không gọi là một, cũng không gọi là nhiều. Y hệt như Gương Tâm Rỗng Rang Chiếu Sáng, không phải một, không phải nhiều…
Đức Phật giải thích về Bất Nhị trong Kinh SN 12.15 — Kaccayanagotta Sutta. Có thể tóm lược thế này: Tỳ Kheo Kaccanagotta hỏi thế nào là chánh kiến, Đức Phật nói rằng thế giới được nhìn như là nhị nguyên, đó là Hữu (Có) và Vô (Không). Người có mắt tuệ thấy tập khởi thế giới, sẽ biết thế giới không phải là không hiện hữu (nonexistence), khi thấy tịch diệt thế giới, sẽ biết thế giới không phải là có (existence).
Đức Phật nói, “Do vậy, Kaccana, nói ‘Tất cả hiện hữu’ là một cực đoan. Nói ‘Tất cả không hiện hữu’ là cực đoan thứ nhì.” (“‘All exists’: Kaccana, this is one extreme. ‘All does not exist’: this is the second extreme.) (6)
Thiền Tông Việt Nam có bài kệ của Thiền sư Tông Diễn (1640-1711), trích: “Hữu vô câu bất lập, nhật cảnh bổn đương bô” (có và không đều không lập, mặt trời trí tuệ sẽ lên cao).
Như thế, Thiền Việt Nam đã dạy pháp Bất Nhị một cách tuyệt vời.
Trong nhóm Kinh Tiểu Bộ, Kinh Snp 3.6, kể rằng du sĩ Sabhiya hỏi Đức Phật rằng thành tựu gì thì được gọi là “bhikkhu” (nhà sư), Đức Phật trả lời bằng pháp Bất Nhị, qua bản dịch của Sư Sujato:
By the path they walked themselves,
Nirvāṇa is realized and doubt is left behind;
Existence and non-existence have been abandoned,
Complete, having ended rebirth: they are a “bhikkhu”.(6)
Dịch:
Bằng con đường [đạo] họ bước đi trên đó
Niết Bàn được chứng nhập, và nghi ngờ được bỏ lại phía sau
Hữu và Vô đã được buông bỏ
Hoàn toàn, kết thúc hẳn tái sinh: họ là một nhà sư.
Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308), người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm của Việt Nam, có bài thơ nhan đề “Hữu cú, vô cú” gồm 9 đoạn thơ, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 4 chữ. Và bắt đầu mỗi đoạn thơ là câu “Hữu cú vô cú”…
Đó là Bất Nhị, là Không Hai, là Sắc Không Bất Dị (Bát Nhã Tâm Kinh), là Trung Luận của Long Thọ, là lời Đức Phật dạy phải buông bỏ cả hai như kinh vừa dẫn, và sẽ kết thúc hẳn tái sinh.
Cũng có thể gọi là Một cũng được (nhà khoa học Albert Einstein ưa nói rằng vũ trụ thế giới này chỉ là Một). Trong nhóm Kinh Tương Ưng, bản Kinh SN 1.62 ghi lời Đức Phật dạy, qua bản dịch của Bhikkhu Bodhi, toàn văn kinh này rất ngắn, chỉ 8 câu, như sau:
“Mind
“By what is the world led around?
By what is it dragged here and there?
What is the one thing that has
All under its control?”
“The world is led around by mind;
By mind it’s dragged here and there.
Mind is the one thing that has
All under its control.” (6)
Có thể dịch như sau: “Bởi cái gì, thế giới này bị xoay chuyển? Bởi cái gì, thế giới này bị lôi kéo nơi đây và nơi kia? Cái gì là một pháp mà kiểm soát hết Tất Cả? Thế giới bị xoay chuyển bởi tâm. Thế giới này bị lôi kéo nơi đây và nơi kia bởi tâm. Tâm là một pháp mà Tất Cả đều dưới sự kiểm soát của nó.”.
Nghĩa là, như Kinh Lăng Nghiêm nói: Toàn tướng tức tánh, toàn tánh tức tướng.
Thiền Tông giải thích tất cả pháp đều là Không. Có khi nói toàn sóng là nước, toàn ảnh là gương.
Tuyệt vời. Hiển nhiên, đây là ngôn ngữ Thiền Tông. Thử suy đoán: Nghi vấn rằng, sự thật Đức Phật đã cầm lên bông hoa và truyền pháp “bất lập văn tự” cho ngài Ca Diếp, nhưng rồi sự kiện này vì không dùng ngôn ngữ nên không ai biết cách đọc tụng để nhớ… và rồi bị lãng quên?
Nơi này nên nhắc tới Thiền Sư Đạo Hạnh (? – 1115) ghi trong sách Thiền Sư Việt Nam của Hoà Thượng Thích Thanh Từ cũng nói y hệt Kinh SN 1.62.
Trích như sau:
“…tìm đến pháp hội của Thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân. Đến đây, Sư cũng lặp lại câu hỏi:
– Thế nào là chân tâm?
Sùng Phạm đáp: – Cái gì chẳng phải chân tâm?
Sư hoát nhiên nhận được. Lại hỏi: – Làm sao gìn giữ? (Ghi chú của NG: “gìn giữ”nghĩa là “bảo nhậm.”)
Sùng Phạm bảo: – Đói ăn, khát uống.
Sư liền lễ bái rồi lui.
Sau, Sư trụ trì chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích, (Chùa Thiên Phúc cũng gọi là chùa Thầy ở núi Phật Tích, nay là núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây… tăng chúng tìm đến tham vấn. Có vị tăng hỏi:
– Đi đứng nằm ngồi thảy đều Phật tâm, thế nào là Phật tâm?
Sư nói kệ đáp:
Có thì muôn sự có,
Không thì tất cả không.
Có, không trăng đáy nước,
Đừng mắc có cùng không.”(6)
Bởi xa lìa cả Hữu và Vô như thế, thái độ người tu tất nhiên là NHƯ THỊ.
Kinh Bahiya ghi lời Đức Phật dạy ngài Bahiya là:
“Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri. Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (6)
Lời dạy hãy nhìn các pháp Như Thị là Như Thị còn viết theo chi tiết khác trong Kinh AN 4.24. Trong kinh này, Đức Phật tự gọi là Như Lai. Chữ “Như Lai” trong kinh này, Bhikkhu Bodhi ghi là “the Stable One” trong khi Thanissaro Bhikkhu ghi là “Tathagata.”.
Kinh AN 4.24 còn gọi là Kinh Kalaka Sutta, dựa vào bản Thanissaro Bhikkhu, sẽ tóm tắt như sau: Này các sư, khi thấy cái được nhìn thấy, Như Lai không diễn giải suy lường một vật như cái được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường cái không được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường một vật như cái sẽ được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường có ai đang thấy… Tương tự với nghe… với thức tri… Các sư, do vậy, Như Lai – hệt như thế với tất cả hiện tượng có thể được thấy nghe hay biết – là Như Thị, là Như Thế. Và ta nói với các sư rằng, không có pháp NHƯ nào khác cao hơn hay vi diệu hơn… Bất cứ những gì được thấy nghe hay biết và được người khác gọi là sự thật, một bậc giữ tâm Như Thị — giữa những người tự phiền não – sẽ không bận tâm bàn thêm gì về đúng hay sai.
(Thus, monks, the Tathagata, when seeing what is to be seen, doesn’t construe an [object as] seen. He doesn’t construe an unseen. He doesn’t construe an [object] to-be-seen. He doesn’t construe a seer…When hearing… Thus, monks, the Tathagata — being the same with regard to all phenomena that can be seen, heard, sensed, & cognized — is ‘Such.’ And I tell you: There’s no other ‘Such’ higher or more sublime… Whatever is seen or heard or sensed and fastened onto as true by others, One who is Such — among the self-fettered — wouldn’t further claim to be true or even false.) (6)
Trong Kinh SN 12.23, cũng dạy pháp BIẾT NHƯ THỊ & THẤY NHƯ THỊ. Kinh này có nhiều bản Anh dịch. Riêng Ngài Bhikkhu Bodhi có 2 bản Anh dịch, một bản năm 1995 và một bản năm 2000 (bản năm 2000 vừa để ở mạng SuttaCentral, vừa in trên sách giấy, “The Connected Discourses of the Buddha,” trang 553-556). Trong đó, một khác biệt ở 2 bản này là, chữ “duyên để phá hủy phiền não”. Cả 2 bản sẽ có links ở ghi chú (6).
Bản 1995 của ngài Bodhi viết: …with respect to destruction has a supporting condition… (duyên hỗ trợ phá hủy).
Bản 2000 của ngài Bodhi viết: …in regard to destruction has a proximate cause… (duyên trực tiếp, duyên tức khắc phá hủy).
Nguyên Giác (còn nữa…)