.
.

Não và Tâm


Tâm không ở trong ta, không ở ngoài ta, mà có thể ta ở trong Tâm?

Trong tựa đề, “Có phải Tâm là sản phẩm của Não hay Não nhận chỉ thị từ Tâm?” Arjun Walia.

“Is Consciousness A Product Of The Brain Or Is The Brain The Receiver Of Consciousness?” Arjun Walia.

Arjun Walia diển tả: “Tâm là đường lối chúng ta cảm nhận và quan sát thế giới của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ, chúng ta cố ý, cảm nhận, nhạy cảm hơn. Câu hỏi lớn nhất cho nhân tâm ngày nay “rằng thì là” (whether) nó đơn giản là một sản phẩm của não của chúng ta, hay nếu não nhận chỉ thị từ Tâm. Nếu Tâm không là đặc sản của não bộ thì nó có nghĩa là cái nhân thể vật chất không bị lệ thuộc vào chuỗi tâm thức, hoặc tự tâm.”

“Consciousness is the way we perceive and observe our world, the way we think, our intentions, feelings, emotions and more. One of the biggest questions regarding human consciousness today is whether it is simply a product of our brain, or if the brain is a receiver of consciousness. If consciousness is not a product of the brain it would mean that the human physicality is not required for the continuation of consciousness, or consciousness itself.” Arjun Walia.

Đại khái, nếu sắc không phải là cái nhân tạo (produce, affect) ra tâm quả thì dòng tâm thức không cần thiết là nguyên nhân (cause, root,) hay tự tâm sinh, tự tánh vô sinh.

Theo khái niệm nhân quả, thì Ta (não) là nhân tạo ra tâm là quả, hay dòng tâm thức không cần tới não để tạo ra nhân sinh (chúng sinh lẫn vạn vật) hay tâm tự tạo lấy tâm không cần đến nhân sinh.

Vài khoa học gia khác cũng nói rằng “tâm” của ta không bị nhốt ở trong não, hay ngay cả thân mình.

“Scientists say your ‘mind’ isn’t confined to your brain, or even your body.”

Lý thuyết gia vật lý, giải Nobel vật lý 1918, Max Planck nói, “Tôi thấy tâm như nền tảng chính. Tôi xem vật chất (sắc) như kết quả từ tâm. Chúng ta không thể bắt kịp (get behind) tâm. Tất cả những gì chúng ta nói, tất cả những gì mà chúng ta xem như là hiện hữu, từ tâm tưởng.”

“I regard consciousness as fundamental. I regard matter as derivative from consciousness. We cannot get behind consciousness. Everything that we talk about, everything that we regard as existing, postulates consciousness.”
 – Max Planck, theoretical physicist who originated quantum theory, which won him the Nobel Prize in Physics in 1918.

Von Neumann (1903-1957) nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính phát biểu: Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức – điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật.

“Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism.” Von Neumann.

Eugene Wigner, nhà lý thuyết vật lý và toán học gia, giải Nobel vật lý 1963, đã viết: “Nó đã là điều không tưởng để công thức hóa những luật của đa lượng tử cơ khí trong phương cách đầy hợp nhất mà không đề cập tới tâm.”

“It was not possible to formulate the laws of quantum mechanics in a fully consistent way without reference to consciousness.” – Eugene Wigner, theoretical physicist and mathematician. He received a share of the Nobel Prize in Physics in 1963

Phật giáo đã định nghĩa rất chi tiếc về tâm bồ đề này với một rừng kinh sách.

Tâm không ở trong ta, không ở ngoài ta, mà có thể ta ở trong Tâm?

Nhưng khi tâm vào trong tim ta thì tâm là ta và khi ta vào ở trong tâm lòng thì ta là tâm?

Đơn giản hóa, vô tâm, vô ngã, không vào không ra!

Arjun Walia viết, “Một trong những thí dụ điển hình nhất được gọi là hiện tượng tâm linh ngoại cảm (parapsychological phenomena.) Típ hiện tượng này đã cho thấy là chúng ta nhận tín hiệu không cần dùng đến ngũ quan, rằng chúng ta có thể dùng tâm linh để ảnh hưởng tới vật chất và những lục phủ ngũ tạng bằng cái dùng tâm lực để cân bằng, điều hòa những phản ứng hóa học trong cơ thể và để tự bình phục. Nghiên cứu cũng chứng tỏ rằng có vài người có công năng để xuất hồn và có thể thấy được cõi khác. Nghiên cứu đã suy ra rằng cái tâm thức vượt không gian đó có bản tánh như là vô sở vô trụ (non-locally correlated).”

“One of the best examples (in my opinion) is what’s called parapsychological phenomena. This type of phenomena has demonstrated that we can receive information without the use of our senses, that we can mentally influence physical devices and living organisms by using our consciousness. Research has also shown that some people have the ability to project their consciousness outside of our body and view another remote location. Research has suggested that distant minds may behave in ways that are non-locally correlated.” Arjun Walia.

Mới nghe qua có vẻ hoang đường, mê tín dị đoan trái ngược với những gì đức Phật dạy. Cũng nên nhớ rằng trong kinh điển đã ghi lại, có những đại đệ tử của Phật đã đạt thần thông trước khi quy y Phật và thỉnh thoảng họ cũng biễu diễn thần thông cho các bạn trong lúc vui chơi với nhau nhưng đức Thế Tôn thường cảnh cáo họ là không nên khoa trương và sở trụ vào những cái huệ năng chứng được tạm bợ đó.

Những công án trên đang được khoa học nghiên cứu và sẽ được chứng minh trong một ngày gần đây như ta đang thấy trong những phim ảnh của khoa học giả tưởng. Đa số những điều không tưởng đó đã trở thành sự thật nhờ những bộ óc tưởng tượng phong phú của nhân loại cùng văn minh tiến bộ của khoa học hiện đại. Tất cả từ Tâm tưởng mà ra?

Đại khái, tiến sĩ Gary Schwartz nói, “Những hiện tượng tâm linh này rất phổ thông nên chúng không thể coi là bất thường hay bị liệt vào những ngoại lệ của những luật tự nhiên thay vì chúng cần được giải thích trong khuôn khổ cởi mở hơn vì chúng không thể xây dựng trên thời biểu giới hạn của vật chất.”

“These events are so common that they cannot be viewed as anomalous nor as exceptions to natural laws, but as indications of the need for a broader explanatory framework that cannot be predicated exclusively on materialism.” – Dr. Gary Schwartz

Không thể dùng khoa học vật chất để giải thích hay chứng minh hiện tượng tâm linh, phi vật chất?

Khoa học không hoàn toàn phủ nhận những điều chưa chứng minh được vì trong lịch sử khoa học có những điều không tưởng được nghiên cứu, thí nghiệm, quan sát, chứng minh, công nhận, và thực hiện.

Khoa học thực dụng dựa vào kiến thức và suy luận để giải thích những hiện tượng trong vũ trụ khác với những kẻ không có trí tuệ, kém học thức, mê tín dị đoan khi thấy những công năng lạ lùng chưa được khoa học giải thích đó vội vàng thần thánh hóa, tin đó là phép lạ, tâm sợ ma, lòng sợ hải rồi phủ phục, thờ phụng, bái lạy, ca tụng nên dễ bị khống chế và bị lừa bịp bởi những tập đoàn ma giáo chuyên nghiệp.

Dĩ nhiên, ngay đến bây giờ và khoa học lẫn kinh sách vẫn chưa thật sự chứng minh được những điều trên chứ không phải là không chứng minh được.

Những điều huyền bí khác thường mà con người tín ngưỡng nhưng chưa có thể giải thích thích đáng được Khổng Tử đề nghị: Kính nhi viễn chi.

Cái gì bí tỉ, không trã lời được thì đổ thừa đó là “Trời sinh”. Có thể vì vậy mà tín ngưỡng thần giáo vẫn còn cần thiết và luôn tồn tại trong tâm phan duyên, “thần hồn nhát thần tính,” của nhân sinh?

Tuy nhiên, con người có trí thức lẫn trí tuệ phải thể hiện tâm từ bi, lòng quảng đại, không nên phỉ báng lòng tin của tôn giáo khác. Người Phật Tử nên tôn trọng tự do tín ngưỡng của họ trừ khi chúng ta phải tự vệ bằng cách giáo hóa nhân sinh, bảo vệ hòa bình và sự thật.

Cái tâm [phức tạp] cũng được hình dung như là dòng tâm thức nơi những khái niệm của căn trần và tâm thức tiếp tục thay đổi không ngừng.

“The mind is also portrayed as the stream of consciousness where sense impressions and mental phenomena are constantly changing.”
 Mind, Wikipedia.

Lê Huy Trứ